Top 7 bài văn phân tích tác phẩm "Chiếu dời đô" hay nhất

5.0  (1 bình chọn)
 857

Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Theo sử sách ghi lại, ông được xem là một vị vua anh minh sáng suốt.  Sáng tác của Lý Công Uẩn chủ yếu là để ban bố mệnh lệnh, thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng đến vận nước. Một trong số đó là tác phẩm "Chiếu dời đô" để lại cho đời nhiều giá trị và ý nghĩa lịch sử sâu sắc.

Năm 1010, Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên Đại Việt thành Đại Cồ Việt. Nhân dịp này ông đã viết bài chiếu để thông báo rộng rãi quyết định cho nhân dân được biết. Để hiểu rõ hơn về nội dung tác phẩm kinh điển này, hãy cùng Topz khám phá Top 7 bài văn phân tích tác phẩm "Chiếu dời đô" hay nhất mà chúng tôi sưu tầm ngay sau đây!

1

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 1

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

Lý Công Uẩn là một võ tướng tài ba, đức độ. Khi Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua và lấy hiệu là Lý Thái Tổ gây dựng lên nhà Lý tồn tại hơn 200 năm. Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long, Hà Nội) vào năm 1010 và viết “Chiếu dời đô”. Đây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn.

Phần đầu của chiếu dời đô chính là mục đích và tầm quan trọng của việc dời đô. Tác giả đã nêu Lên những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô. Như chúng ta đã biết thì từ cổ chí kim việc dời đô là việc thường xuyên của các nhà vua với mục đích là tìm ra chỗ hợp phong thủy, góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.

Ở trong tác phẩm, Lý Công Uẩn đã đưa ra dẫn chứng của những vị vua bên Trung Quốc trước đó. Trước kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đã có tới năm lần dời đô. Rồi thời nhà Chu đến thời vua Thành Vương cũng có tới ba lần dời đô. Còn khẳng định rằng việc chuyển dời mà phải xem xét chứ đâu phải tự ý chuyển dời được.

Dời đô vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm trời đất, mưu toan việc lớn để tính kế muôn đời cho con cháu mình. Trên thì tuân theo mệnh trời, dưới thì theo ý dân và nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Chính điều đó khiến cho vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Bằng những dẫn chứng trên Lý Công Uẩn đã lấy những bằng chứng đó để làm tiền đề, để mở đầu cho bản chiếu dời đô. Mục đích của việc rời đô là để việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt ở trung tâm của đất nước để dễ bề vận hành quản lý.

Qua những lý lẽ trên có thể thấy việc thay đổi kinh đô của nhà Lý là hoàn toàn hợp lý, là một điều tất yếu khách quan. Quyết định dời đô là từ thực tế khách quan đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua và dân tộc ta lúc bấy giờ khi muốn xây dựng một Đại Việt hùng mạnh. Phần thứ hai tác giả phân tích thực tế để cho mọi người thấy được kinh đô cũ không còn thích hợp để mở mang đất nước nữa. Thậm chí còn không ngần ngại việc phê phán những triều đại cũ ở nước ta. Tiêu biểu đó là nhà Đinh, Lê khi khinh thường mệnh trời, đón đô yên ở đây khiến cho vận nước ngắn ngủi.

Rút ra kết luận nếu trái với quy luật vận động thì sẽ không có kết quả tốt được. Tuy nhiên cũng nêu ra sự thật ở giai đoạn đó hai triều chưa đủ mạnh, chưa đủ sức chống chọi lại với kẻ thù luôn lăm le muốn xâm lược nước ta. Đồng thời càng chưa thể dời đô ra chỗ bằng phẳng mà vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của Hoa Lư để có thể tồn tại, chống thù trong, giặc ngoài. Phải đến thời nhà Lý khi đất nước ta đang trên đà mở mang, phát triển. Bấy giờ kinh đô Hoa Lư không còn phù hợp nữa nên việc dời đô là tất yếu.

Ngoài việc chứng minh Hoa Lư không còn thích hợp để tiếp tục đóng đô thì Lý Công Uẩn còn đưa ra những minh chứng về những điểm phù hợp, thuận tiện của thành Đại La. Đầu tiên là về vị trí, đây không chỉ là kinh đô cũ của Cao Vương mà còn là nơi trung tâm của trời đất, lại được thế “rồng cuộn hổ ngồi”.

Về địa thế thì thế nhìn sông tựa núi, địa thế đất vừa rộng, vừa bằng phẳng lại vừa cao, thoáng mát. Có thể thấy đây là một nơi có địa thế tốt cả về mặt địa lý, về cả văn hóa, giao lưu kinh tế – văn hóa. Nếu dân cư tập trung về đây sẽ phát triển được tiềm lực kinh tế, không phải chịu cảnh ngập lụt khốn khổ.

Vị trí mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây thuận lợi cho việc phát triển lâu dài của đất nước. Đồng thời đây là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước. Khi xem xét toàn diện thêm cả về mặt phong thủy thì đây là nơi hoàn toàn thích hợp, địa điểm tối ưu nhất để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Có thể nói vua đã có sự tìm hiểu kỹ càng và nắm rõ được thực lực cũng như khát vọng xây dựng đất nước hùng mạnh hơn.

“Chiếu dời đô” (Thiên đô chiếu) chính là áng văn xuôi cổ độc đáo và đặc sắc. Tác phẩm đã thể hiện khí phách anh hùng dám đương đầu với thử thách và vững tin vào khả năng của mình của Lý Công Uẩn. Chính ông đã đặt nền móng cho sự phát triển hưng thịnh và lâu dài của đất nước.

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 1
2

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 2

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có một vị trí quan trọng. Nó là áng văn khởi đầu cho nền văn học thời Lí - Trần. Hơn nữa, nó là áng văn đầu tiên thể hiện khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Chiếu dời đô ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt. Tuy không phải là hoàn cảnh giặc thù đang lăm le ngoài biên ải, vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Cũng không phải không khí tưng bừng rộn rã của cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn như hoàn cảnh ra đời của Bình ngô đại cáo. Đây là hoàn cảnh đất nước đã thái bình. Nhưng nền thái bình ấy còn mong manh, nguy cơ giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải là hết. Đây là thời điểm dân tộc ta đã giành được chủ quyền, có núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng các triều đại Đinh- Tiền Lê nối tiếp nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong. Nhà Lí thành lập. Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ Lí. Làm thế nào để giữ yên giang sơn bờ cõi, bảo tồn được thành quả của cha ông đã giành được? làm thế nào để phát triển đất nước ngày càng hùng cường? Niềm trăn trở ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ(Lí Công Uẩn), và bài Chiếu đã ra đời. Hơn ai hết, Lí Công Uẩn hiểu rõ lí do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời đô.

Trong lịch sử nhân loại , đã có không ít những lần dời đô. Không xét đâu xa lạ, chỉ riêng một quốc gia cận kề với Đại Việt là Trung Hoa, chỉ ở hai triều đại thôi cũng đã có tới vài lần phải thay đổi kinh đô: Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Việc dời đô của các vị đế vương Thương, Chu ấy phải đâu là những việc làm tùy tiện, theo ý riêng của mình. Đó là những việc làm có suy tính đến sự thiệt hơn, đến sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, xã tắc, đến hạnh phúc lâu dài của trăm họ, muôn dân. Thật là một việc làm trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân, đáng là tấm gương để đời sau noi theo.

Từ bài học của các đế vương Trung Hoa, đi sâu vào thực tế của Đại Việt, Lí Thái Tổ càng thấy bức xúc, trăn trở: Kinh Đô của Đại Việt đóng ở Hoa Lư, nơi đất hẹp hè thưa, địa thế tuy có hiểm trở nhưng đâu phải là nơi thuận tiện cho việc giao lưu phát triển, làm sao vận nước có thể lâu dài, phong tục có thể phồn vinh như các triều đại Thương, Chu bên Trung Quốc? Và thực tế là số vận của hai nhà Đinh, Lê không được lâu bền, số vận ngắn ngủi và trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi há chẳng phải là điều đang diễn ra đó sao? 

Không chỉ bức xúc, trăn trở, nhà vua còn cảm thấy rất đau xót về việc đó. Tình cảm chân thành của ông là khát vọng về đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường. Khát vọng ấy biến thành ý chí hành động không thể chuyển dời.

Bắt nguồn từ một khát vọng lớn lao, cao cả, với một vị trí mẫn tiệp, với tầm nhìn xa, trông rộng của một bặc thiên tài kiệt xuất, vị đế vương nhà Lí đã tìm được cho dân tộc ta một địa danh lí tưởng để định đô lâu dài. Đó là thành Đại La.(Hà Nội ngày nay). Nhà vua chỉ rõ các bá quan văn võ, cho thần dân cả nước thấy được những lợi thế vô cùng lớn của thành Đại La mà không nơi nào trên quốc gia Đại Việt có được.

Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuốn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Thứ hai, vế chính trị, văn hóa thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Đóng đô ở một nơi như thế hỏi làm sao vận nước có thể ngắn ngủi, trăm họ có thể hao tổn, muôn vật có thể không được thích nghi? Chắc chắn là vận nước sẽ được lâu dài, phong tục sẽ được phồn vinh, trăm dân muôn họ sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Hỏi có còn mong ước gì hơn? Một khát vọng thật đẹp. Khát vọng của Lí Thái Tổ cũng là khát vọng của những người dân Đại Việt lúc ấy và cả sau này. Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm khao khát xây dựng một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cườngcuar cả dân tộc nên nó được mọi người nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời và tồn tại vĩnh viễn. Chiếu dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, nó còn thể hiện được khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Do thế và lực còn yếu, chưa đủ sức để đối phó với nạn ngoại xâm nếu định đô ở đồng bằng, nên hai nhà Đinh, Lê phải chọn Hoa Lư làm kinh đô mong dựa vào địa thế hiểm trở để bảo tồn vương triều, giữ vững chủ quyền. Bởi chưa lớn mạnh nên số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn là lẽ đương nhiên. Nhưng nay, nhà Lí là sự kế tục sự nghiệp của các triều đại cha anh,có thế đã lớn mạnh hơn. Nhưng dù có lớn mạnh hơnhay chưa thực sự lớn mạnh thì quyết định dời đô của vị Thái Tổ họ Lí cũng đã khẳng định được khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử thách, vững tin vào khả năng của mình. Khí phách của vị đế vương đầu tiên của nhà Lí cũng là khí phách của cả một vương triều, của cả một dân tộc đang trên đà lớn mạnh.

Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta càng thấy thấm thía sự sáng suốt và quyết định đúng đắn của một bậc đế vương hào kiệt, càng thêm biết ơn ông đã đặt nền móng cho sự bền vững, hưng thịnh lâu dài của đất nước, càng thêm cảm phục và quý mến ông. 

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 2
3

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 3

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

Lý Công Uẩn (974-1028), hay còn gọi là Lý Thái Tổ - vị vua đầu tiên của triều Lý. Quê gốc ở châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là tỉnh Bắc Ninh). Ông là người thông minh, tài năng, lại có chí lớn khi còn làm quan dưới triều Lê từng lập được nhiều chiến công, khi lên ngôi vua lại trở thành vị vua anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng. Trong suốt thời gian trị vì việc dời đô về Đại La là một trong những sự kiện tiêu biểu thể hiện tài năng và đức độ của Lý Công Uẩn. Chiếu dời đô viết năm 1010, là bài chiếu được đích thân Lý Thái Tổ viết nhằm công bố rộng rãi quyết định dời đô đến toàn thể nhân dân, với những lý lẽ và dẫn chứng thuyết phục, phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc được độc lập thống nhất và Tổ quốc đang trên đà lớn mạnh.

Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, được viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi, được ban bố và đón nhận một cách trang trọng. Một số bài chiếu thể hiện những tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến vận mệnh của cả một triều đại, đất nước. Chiếu dời đô chính là một trong số đó.

Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn là một tác phẩm được viết theo thể chiếu dưới dạng văn biền ngẫu, nhưng mang bố cục của một bài văn nghị luận mẫu mực điển hình, được xem là áng văn chính luận đặc sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong phần đầu của tác phẩm Lý Công Uẩn tập trung đi vào phân tích những lý do, cơ sở của việc dời đô từ Hoa Lư về kinh thành Đại La với những lý lẽ vô cùng sắc bén và thuyết phục. Ông nhận định rằng việc dời đô từ cổ chí kim luôn là việc cần thiết và thường xảy ra ở nhiều triều đại, đồng thời đưa ra dẫn chứng trong lịch sử của Trung Quốc cổ đại rằng nhà Thương cũng từng 5 lần dời đô, nhà Chu cũng có 3 lần dời đô. Sau đó tác giả khéo léo chỉ ra mục đích của việc dời đô không phải là theo ý thích của bậc vua chúa, mà tất thảy cũng vì nhân dân, vì vận nước nên "muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu", và đặc biệt việc dời đô vốn dĩ phải "trên vâng mệnh trời, dưới thuận ý dân", chứ không phải thích là dời được. Để củng cố cho nhận định của mình về việc dời đô, Lý Công Uẩn tiếp tục đưa ra những lợi ích khi dời đô đó là "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Đồng thời cũng dẫn ra ví dụ về hai nhà Đinh, Lê "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời", cứ mãi đóng đô ở một chỗ, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi". Kết quả đáng tiếc này khiến cho nhà vua trăm bề đau xót, từ đó dẫn đến quyết định dời đô vì không muốn lặp lại vết xe đổ của những triều đại đi trước. Từ đó có thể nhận định việc dời đô về kinh thành Đại La trở thành một việc đúng đắn, chính nghĩa, bộc lộ tài năng, tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua, cũng như tấm lòng thấu hiểu, lo lắng cho nhân dân. Đồng thời dời đô trong thời điểm này là một việc làm thiết yếu, hợp với thiên mệnh, thể hiện tinh thần độc lập, tự cường, sự lớn mạnh của Đại Việt. Sự phối hợp rất nhịp nhàng, tinh tế giữa cái lý và cái tình của tác giả, làm cho bài chiếu trở nên thuyết phục và linh hoạt chứ không hề khô khan cứng nhắc.

Sau khi đưa ra cơ sở, cũng như những lý do chính đáng của việc dời đô thông qua việc soi chiếu lịch sử triều đại của cả Trung Quốc và Đại Việt. Nhà vua tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La bằng việc chỉ ra những lợi thế của kinh thành Đại La so với Hoa Lư về các phương diện lịch sử, địa lý, phong thủy, giao thương, dân cư, thiên nhiên. Về phương diện lịch sử đi ngược về khoảng thời gian hơn 100 năm về trước Lý Công Uẩn chỉ ra Đại La đã từng là nơi mà Cao Vương, tức Cao Biền, một viên quan nhà Đường từng làm Đô hộ sứ Giao Châu (nước ta xưa) lựa chọn làm kinh đô. Chứng tỏ rằng nơi đây phải có những đặc điểm nổi trội hẳn so với những nơi khác để trở thành nơi đặt cơ quan đầu não cai trị của Cao Vương. Xét về phương diện địa lý, Đại La lại là nơi "trung tâm trời đất", "địa thế rộng mà bằng", "đất đai cao và thoáng" vô cùng thuận lợi cho nhân dân an cư lạc nghiệp, cũng là nơi thích hợp phát triển cả về kinh tế, chính trị và văn hóa. Xét về phương diện phong thủy kinh thành Hoa Lư là nơi có "thế rồng cuộn, hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây", "tiện hướng nhìn sông dựa núi", tất cả đều chỉ ra đây là một nơi có địa thế đẹp, nhận đủ mọi sự ưu ái của trời đất, là chỗ đắc địa muôn nơi mới có một, chính là lựa chọn chính xác nhất để làm kinh đô Đế vương muôn đời. Bên cạnh đó xét về lợi ích của nhân dân thì chính nhờ vào những ưu điểm địa hình thế nên nhân dân không phải lo cảnh ngập lụt, dẫn tới việc canh nông thuận lợi, cây cối tốt tươi, vô cùng có ích cho việc phát triển kinh tế đất nước. Đối với việc giao thương, vì Đại La là nơi "trung tâm trời đất", "là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước", thế nên chắc chắn giao thông thuận lợi, dời đô về đây việc quản lý đất nước và ngoại giao, buôn bán cũng trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Một lý do nữa mà Lý Công Uẩn quyết định dời đô thì Hoa Lư về Đại La là bởi, xét tình hình hiện tại đất nước đã bước vào nền độc lập, tự chủ gần 100 năm, trước kia vì Đại Việt còn non yếu, lại luôn phải chịu sự xâm lược từ phương Bắc. Vậy nên đóng đô ở Hoa Lư, nơi có địa hình hiểm trở, núi non bao bọc, trở thành một trận tuyến vững chắc giúp ta chống lại kẻ thù bằng lối đánh du kích, lấy ít địch nhiều. Tuy nhiên đến thời Lý Thái Tổ, đất nước ngày càng phát triển, quân đội hùng mạnh việc đóng đô ở Hoa Lư không còn thích hợp nữa, dời đô về Đại La chính là sự khẳng định cho ý chí độc lập tự cường của dân tộc, quân dân Đại Việt ta ngày nay đã lớn mạnh sẵn sàng chống lại mọi sự xâm lược mà không cần phải dựa vào địa hình núi non hiểm trở như trước kia nữa.

Kết lại bài chiếu nhà vua đã viết "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?", câu hỏi này vừa có ý nghĩa là một mệnh lệnh, bởi vốn dĩ nhà vua đang ban chiếu dời đô, nhưng đồng thời nó cũng mang tính chất tâm tình khi nhà vua có ý muốn hỏi quần thần về ý định của mình. Điều đó thể hiện tấm lòng đức độ, anh minh của Lý Thái Tổ, dù là bậc cửu ngũ chí tôn nhưng vẫn hết lòng trân trọng ý kiến của quần thần, cũng là của nhân dân, đặt nhân dân lên làm gốc để tiến hành các quyết định. Đồng thời cũng bộc lộ mong muốn của Lý Thái Tổ về một đất nước vua tôi đồng lòng, đạt được sự thống nhất, thuận tình trong nhân dân. Có thể nói rằng cách đặt câu hỏi cuối bài đã làm cho bài chiếu trở nên khách quan, thấu tình đạt lý, giữ vững nguyên tắc trên vâng mệnh trời, dưới thuận ý dân, dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc, người nghe.

Chiếu dời đô là một áng văn chính luận đặc sắc phản ánh khát vọng của nhân dân ta về một đất nước độc lập thống nhất, nhân dân có ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết một lòng, đồng thời cũng thể hiện sự anh minh, sáng suốt, tài năng và đức độ của Lý Công Uẩn trong quá trình trị vì đất nước giai đoạn đầu nhà Lý mới được thành lập. Tác phẩm thành công không chỉ nằm ở việc chứa giá trị nội dung sâu sắc mà còn nằm ở nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng tiêu biểu giàu sức thuyết phục, lối viết kết hợp hài hòa giữa cái lý và tình.

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 3
4

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 4

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

Lí Công Uẩn quê ở Kinh Bắc, là võ tướng có tài của Lê Bại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉhuy sứ. Ông là người tài trí,, đức độ, kín đáo, nhiều hi vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, Lí Công uẩn được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, lấy hiệu là Lí Thái Tổ và gây dựng nên nhà Lí tồn tại hơn 200 năm. Năm 1010, Lí Thái Tổ viết "Chiếu dời đô" để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La. Sau khi dời về Đại La, ông đổi tên địa điểm này thành Thăng Long, kinh đô của nước Đại Việt, chính là Hà Nội ngày nay. Có thể nói Chiếu dời đô của Lí Công uẩn là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Chính văn bản này đã góp phần khai sinh ra kinh đô của nước ta trong quá khứ và hiện nay.

Phần đầu của Chiếu dời đô nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô. Đó là đểđóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân. Nói một cách khác, việc dời dô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời, vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.

Việc dời đô không còn là chuyện xưa nay hiếm, nó đã được thực hiện bởi các vị vua trước đó ở Trung Hoa. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng cụ thể để thuyết phục mọi người. Chuyện các vị vua Trung Hoa dời đô để xây dựng đất nước phồn thịnh, chuyện các vị vua Việt Nam thời Đinh - Lê đóng đô ở Hoa Lư làm cho triều đại không vững bền, nhân dân đói kém... Lí Công uẩn đau xót khi chứng kiến vận số ngắn ngủi của nhà Đính, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc làm cấp thiết.

Phần mở đầu của Chiếu dời đô có lí lệ sắc bén, dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên những ấn tượng đẹp: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi. Tác giả đã chỉ ra được những điểm thuận lợi của kinh đô mới so với kinh đô cũ. Đại La không có gì xa lạ đối với mỗi người dân Việt lúc đó, nó được Cao Biền đời nhà Đường xây dựng vào thế kỉ thứ IX. Những điểm mạnh của kinh đô đã được Lí Công Uẩn chỉ rõ trong bài chiếu. Vị trí của nó ở vào nơi trung tâm của trời đất ... đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Địa thế của Đại La rất đẹp, rất hùng vĩ, là thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng.

Rõ ràng đây là một vùng đất lí tưởng thích hợp cho việc đóng đô và quần tụ cư dân. Nó không bị ngập lụt mà muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Tóm lại, Đại La là thắng địa, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Phần thứ hai của Chiếu dời đô cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị vua mở đầu triều Lí, một cái nhìn toàn diện, sâu sắc và chính xác về tất cả các mặt. Điều này hoàn toàn không phải là một ý kiến chủ quan mà chính là khả năng nhìn nhận và tính toán một cách chính xác, quyết đoán. Sau một nghìn năm, Thăng Long xưa nay là Hà Nội đã trở thành kinh đô của hầu hết các triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây chính là cống hiến vĩ đại của Lí Công Uẩn cho lịch sử Việt Nam như câu nói của ông lúc dời đô: mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn dời cho con cháu.

Về mặt văn chương, phần thứ hai của Chiếu dời đô rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu hình ảnh và biểu cảm. Vế đối trong các câu rất chuẩn và đạt hiệu quả cao về mặt nghệ thuật. Phần cuối của bài Chiếu là lời bày tỏ của nhà vua trước quần thần về ý định dời đô, điều này cho thấy nhà vua rất công minh, đức độ trong việc trị nước:

"Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?"

Việc dời đô của Lí Công uẩn là một kì tích, kì công đối với đất nước. Sau một ngàn năm, Thăng Long - Hà Nội đã trở thành kinh đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; là trung tâm kinh tế, quốc phòng, văn hóa lớn của cả nước.

Chiếu dời đô là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng đúng như khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 4
5

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 5

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

Trong chế độ phong kiến Việt Nam, Lí Công Uẩn được biết đến là một trong những vị minh quân có tầm nhìn xa trông rộng, lo lắng cho vận mệnh đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua việc ông quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). Sự kiện chính trị này gắn với một tác phẩm văn học có giá trị là “Chiếu dời đô”. Bằng lập luận chặt chẽ, thuyết phục, bài chiếu chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.

Đầu tiên, trong tác phẩm này, giá trị nhân văn thể hiện qua mục đích và dời đô và nỗi lòng của tác giả. Mục đích của việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La là vì lo lắng cho vận mệnh đất nước. Nhận thấy những khó khăn ở nơi đóng đô hiện tại, cụ thể là địa hình núi hiểm trở gây ra nhiều khó khăn để phát triển đất nước trong thời bình.

Tác giả nêu ra những tấm gương không ngần ngại dời đô: “Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô” cùng với việc khẳng định đây là việc tất yếu nếu muốn phát triển đất nước. Vì hai nhà Đinh, Lê không nhận ra điều này nên “cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp” khiến cho tác giả lo lắng cho vận nước.

Chứng kiến cảnh nhân dân khổ cực, lầm than, Lí Công Uẩn “vô cùng đau xót”. Lời bộc bạch chân thành đã làm nổi bật hình ảnh của một ông vua yêu nước, thương dân và luôn khắc khoải về vận mệnh dân tộc. Như vậy, giá trị nhân văn đã được thể hiện qua tấm lòng của bậc minh quân, một lòng muốn dời đô để phát triển đất nước, tạo nên thái bình cùng cuộc sống an vui của con dân.

Giá trị nhân văn của tác phẩm còn được thể hiện qua lí do chọn Đại La làm kinh đô: “ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi”. Tác giả đã phân tích những ưu điểm về mặt địa lí, phong thủy của vùng đất Đại La. Việc nhìn nhận địa thế của Đại La không những thể hiện sự hiểu biết sâu rộng mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của sự thấu tình đạt lí trong việc quyết định dời đô.

Tuy là một bài chiếu nhưng “Chiếu dời đô” lại thấm đẫm giá trị nhân văn bởi một lẽ, Lí Công Uẩn không hề ép buộc nhân dân phải làm theo ý mình. Chiếu vốn thuộc thể loại văn học chức năng, là lời ban bố của vua truyền xuống nhân dân nhưng xuyên suốt bài chiếu, chúng ta không hề bắt gặp bất cứ từ ngữ mang tính chất khẩu lệnh hay ép buộc nào. Ngược lại, bài chiếu được viết nên đầy cảm xúc: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”. Việc dời đô giống như được đưa ra trưng cầu ý dân bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, giọng văn ôn hòa, lời văn chân thật.

Như vậy, tuy thuộc là thể loại văn học chức năng với mục đích ban bố mệnh lệnh nhưng “Chiếu dời đô” không hề khô khan mà rất giàu cảm xúc. Với tấm lòng yêu nước thương dân, tác giả- vị vua Lí Công Uẩn đã tạo nên một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn. Từ mục đích dời đô, lí do chọn Đại La làm kinh đô mới hay đến những lời bộc bạch của tác giả, chúng ta đều bắt gặp trong đó những giá trị vô cùng tốt đẹp và vì con người.

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 5
6

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 6

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

Trước những biến động của nước nhà, hàng loạt các chiếu của nhà vua được ban xuống để bây giờ trở thành những tác phẩm hay có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Cùng với chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta còn được biết đến Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang nhiều nét văn học trong đó.

Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thông minh nhân ái có trí lớn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).

Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lí Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long. Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài hòa với tính chất tâm tình. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn ngữ đối thoại. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán, gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây).

Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho hàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hưng thịnh đất nước. Lí Công Uẩn dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên Trung Quốc trước đó. Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Có thể nói bằng những dẫn chứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề và mở đầu cho bản chiếu dời đô của mình. Dời đô không phải là một việc xấu, từ xưa nó đã diễn ra thường xuyên rồi. Mục đích của nó cốt chỉ để làm cho việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt ở trung tâm của đất nước. Dời để hợp ý trời và thuận lòng dân để từ đó đất nước phồn thịnh kéo dài.

Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lí Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.

Tiếp theo tác giả phân tích nhưng thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang của đất nước nữa cho nền cần thiết phải dời đô. Ông không ngần ngại phê phán những triều đại cũ "Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi". tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh nhà Lê đã không nghe theo ý trời nên chỉ đóng đô ở nơi đây chính vì thế mà triều đại không được lâu dài. Không biết học những cái của thời xưa như nhà Thương, nhà Chu. Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không đi theo quy luật thì sẽ không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế. Nhưng thực chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạnh cả thế và lực để tiến hành việc rời đô vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa. Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả còn thể hiện giãi bày tình cảm của mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy chính là cảm xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng hơn, lâu dài và bền vững hơn.

Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định sự đúng đắn hợp quy luật và phù hợp của việc dời đô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước "Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. " Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. tác giả đã nhìn từ góc nhìn của một nhà phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa dạng có núi có sông, địa thế cao và khoáng đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho việc phát triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước. Xét toàn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực. có thể nói đây là một mảnh đất lý tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ phát triển hưng thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh địa. Có thể hiểu thánh địa là một nơi đất đai địa hình tốt đẹp hợp với một sự phát triển mạnh mẽ.

Kết thúc bài chiếu Lí Công Uẩn không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?". Đó như thể hiện sự dân chủ và công bằng cho tất cả những người bề dưới, quyền quyết định đương nhiên thuộc về nhà vua thế nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến phía dưới để thấy đồng lòng với người dân. Vì chỉ có hợp với lòng dân thì nhà vua cũng như đất nước mới trở nên vững bền được.

Như vậy có thể thấy Lí Công Uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ lấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại La mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục. Tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp với lẽ trời, lòng dân. Tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ, khỏe khoắn để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ cho kế hoạch dời đô của mình.

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 6
7

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 7

09/11/2022

 Chỉnh sửa

Tên tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả: Lý Thái Tổ (974-1028), tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Vài nét về tác phẩm: Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La. Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Nội dung phân tích: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô. Những lí do chọn Đại La làm kinh đô. Thông báo quyết định dời đô.

"Chiếu dời đô" là áng văn chính luận, lí lẽ sắc bén dưới cái nhìn vượt thời đại của vua Lý Thái Tổ. Tác phẩm ra đời không chỉ để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một minh quân dân chủ, thấu ý trời tỏ lòng dân.

Vua Lý Công Uẩn được biết đến là vị vua ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, có giá trị to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước. Đương thời, ông nhận thấy kinh thành Hoa Lư không còn phù hợp cho việc giao thương buôn bán, vì thế nhà vua đã đưa ra quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư tới Đại La, nay là Thăng Long, Hà Nội. Và "Chiếu dời đô" khi được ban hành xuống đã trở thành một tác phẩm trong nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang ý nghĩa nhân văn, văn học sâu sắc.

Chiếu là loại văn thể hiện tư tưởng lớn lao có sự ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước; mang nội dung thông báo một mệnh lệnh, một quyết định của vua chúa cho dân chúng được biết. Với "Chiếu dời đô", ta thấy nó mang đặc trưng chung của thể chiếu, tuy nhiên có những nét rất riêng với sự kết hợp giữa tâm tình và chất mệnh lệnh. Tác phẩm được chia thành 2 phần, phần đầu tiên phân tích những lý do cần thiết phải dời kinh thành và phần 2 là lý do tại sao chọn Đại La làm kinh đô mới của đất nước. Thông qua những bài học lịch sử, dẫn chứng những ví dụ chuyển kinh đô của nước bạn Trung Quốc. Chuyện rời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia.

Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở không còn phù hợp trong thời bình, với lợi thế và địa hình núi rừng như vậy chỉ phù hợp trong thời chiến còn khi hòa bình lại trở thành khó khăn. Nhân dân lúc này cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Và dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.

Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời "Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi".

Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng tiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Thành Đại la sở hữu mọi điều kiện để trở thành kinh đô mới của Đại Việt ta.

"Chiếu dời đô" là áng văn chính luận có giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng, tầm nhìn xa trông rộng bắt nguồn từ thực tế lịch sử vì một Đại Việt hùng mạnh trong tương lai.

Bài văn phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 7

Trên đây là tổng hợp top 7 bài văn phân tích tác phẩm "Chiếu dời đô" của Lý công Uẩn hay nhất mà chúng tôi sưu tầm. Hi vọng sau khi tham khảo xong các em sẽ gỡ rối được những khúc mắc, có thêm những ý tưởng mới để bài văn của mình thêm phần độc đáo, cuốn hút người đọc nhé! 

Đánh giá:

Bình luận

Vui lòng đăng nhập để bình luận.

Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

Báo lỗi

Nội dung báo lỗi là bắt buộc!

Thông báo